Quản lý u nang buồng trứng trong thai kỳ

Bởi supadmin -19-03-2019
Quản lý Khối u buồng trứng trong khi mang thai

1. Giới thiệu

Kể từ khi có siêu âm định kỳ, các khối u buồng trứng được chẩn đoán thường xuyên hơn trước. Tỷ lệ của khối u buồng trứng trong khi mang thai được ước tính là 0,2-2% tùy thuộc vào giai đoạn mang thai. Với tỷ lệ ác tính 1-6%, đại đa số là lành tính (Hoover và Jenkins, 2011; Leiserowitz, 2006; Runowicz và Brewer, 2014; Telischak et al., 2008).

Trước khi kết hợp siêu âm vào thực hành lâm sàng, khối u buồng trứng trong thai kỳ chủ yếu được chẩn đoán bằng khám thực thể khi phụ nữ có các triệu chứng bao gồm đau bụng hoặc sờ được khối u hạ vị. Những khối này có nhiều khả năng được phẫu thuật cắt bỏ để giải quyết các triệu chứng, tránh các biến chứng hoặc do tiềm năng ác tính. Do việc phát hiện khối u trong thai kỳ hiện nay chủ yếu là ngẫu nhiên khi khám thai, chẩn đoán chính xác là rất quan trọng để xác định những bệnh nhân cần phẫu thuật (Bernhard et al., 1999; Glanc et al., 2008; Leiserowitz, 2006).

2. Phân loại u nang buồng trứng

Khối u buồng trứng chức năng

   - Nang noãn bào.

   - Nang hoàng thể.

   - Nang hoàng tuyến.

Khối u buồng trứng thực thể

   - Nang lạc tuyến ở buồng trứng.

   - U nang bì (teratoma).

   - U nang nhầy.

   - U nang thanh dịch.

Các u nang chức năng bị ảnh hưởng nội tiết tố và có thể có hình thái khác nhau trên siêu âm. Các u nang này tự khỏi sau vài tuần hoặc thậm chí vài tháng (Chiang và Levine, 2004; Glanc et al., 2008; Hoffman, 2014; Patel et al., 2005).

U nang bì là những khối u lành tính nhưng có thể gây ra các triệu chứng do vỡ hoặc xoắn. 

Hầu hết các khối u biểu mô của buồng trứng là lành tính. Nang thanh dịch chiếm 40-50% của tất cả các khối u biểu mô. Chúng có dạng nang lớn (5-20 cm), vách mỏng. 

Các khối buồng trứng liên quan đến thai kỳ phổ biến nhất là các u nang chức năng như hoàng thể của thai kỳ. Hầu hết các u nang này sẽ tự khỏi sau 14-16 tuần đầu tiên của thai kỳ, nhưng một số, như u nang nhầy, u nang bì, có thể tồn tại cho đến sau khi sinh. Các khối lượng vẫn có mặt sau 16 tuần thai kỳ chủ yếu là u thực thể (Chiang và Levine, 2004; Leiserowitz, 2006; Glanc et al., 2008; Hoffman, 2014).

3. Các biến chứng của u nang buồng trứng khi có thai

a. Biến chứng chèn ép khi đang mang thai: u to, dạng đặc có thể chèn ép lên tử cung cản trở sự phát triển của tử cung đang mang thai nhi, chèn ép bàng quang gây bí tiểu, tiểu lắt nhắt, chèn ép lên ruột làm tăng tình trạng táo bón của thai phụ. U có thể chèn ép lên niệu quản làm thận ứ nước gây viêm đài bể thận, suy thận.

   U bị vỡ khi u là dạng dịch và u bị tử cung, các cơ quan vùng chậu chèn ép làm vỡ u.

   U buồng trứng trở thành u tiền đạo gây đẻ khó phải mổ lấy thai.

b.Biến chứng xoắn: thường gặp với loại u có cuống, nhưng kích thước vừa và nhỏ mà tỷ trọng nặng như u bì buồng trứng. Biến chứng xoắn thường gặp ở thời kỳ hậu sản khi sản phụ vừa sanh xong, kích thước tử cung thu nhỏ lại làm ổ bụng trống và u sẽ dễ bị xoắn.

c. Biến chứng hóa ác tính: tùy từng loại u mà biến chứng này có các tỷ lệ khác nhau. Tỷ lệ ung thư của u buồng trứng và thai từ 1/10.000  đến 1/25.000. Biến chứng hóa ác tính có thể xảy ra khi vừa có khối u xuất hiện hoặc sau một thời gian u nằm trong ổ bụng mà không được phát hiện và phẫu thuật cắt bỏ khối u sớm.

4. Chẩn đoán

- Lâm sàng: có thể do khám phát hiện tình cờ khi khám định kỳ, thấy đau bụng hạ vị, khối u ổ bụng do sờ được,.. nhưng để chắc chắn được bản chất u từ cơ quan nào thì phải thông qua siêu âm, MRI hoặc CT. Scanner ổ bụng

- Siêu âm:

Siêu âm là công cụ chẩn đoán phổ biến nhất để đánh giá đau vùng chậu và đau bụng khi mang thai vì nó an toàn khi sử dụng (Leiserowitz, 2006). Độ nhạy và độ đặc hiệu cao của nó để mô tả hình thái của khối u làm cho nó trở thành một công cụ lý tưởng để sử dụng như một công cụ chẩn đoán lựa chọn đầu tiên vì hình thái học là yếu tố quyết định quan trọng nhất trong việc phân biệt khối u lành tính với khối u ác tính (Usui et al., 2000; Telischak et al. , 2008; Hoover và Jenkins, 2011; Cohen-Herriou và cộng sự, 2013; Levine, 2014). 

Các nghiên cứu của IOTA (Phân tích khối u buồng trứng quốc tế) được thành lập để phát triển các quy tắc và mô hình để mô tả đặc điểm bệnh lý buồng trứng và chứng minh sự tiện ích của chúng trong tay các bác sĩ với trình độ siêu âm khác nhau.

Quy tắc 1: Nếu có một hoặc nhiều tính năng M không có tính năng B, khối u được phân loại là ác tính.

Quy tắc 2: Nếu có một hoặc nhiều tính năng B không có tính năng M, khối u được phân loại là lành tính.

Quy tắc 3: Nếu có cả tính năng M và tính năng B hoặc nếu không có tính năng B hoặc M, kết quả là không kết luận và thử nghiệm giai đoạn hai được khuyến nghị.

IOTA quy tắc đơn giản. Điều chỉnh từ Timmerman và cộng sự, 2010.

- MRI

Hình ảnh cộng hưởng từ (MRI) có thể được sử dụng một cách an toàn trong tam cá nguyệt hai và ba của thai kỳ. MRI đặc biệt hữu ích trong việc tạo ra hình ảnh 3 chiều, phân biệt giữa các đặc điểm hình thái khác nhau như xương, mô cơ, ví dụ ung thư biểu mô, lạc nội mạc tử cung và khối phức tạp với các hợp chất rắn (Runowicz và Brewer, 2004; Leiserowitz, 2006; Telischak et al., 2008) .

Mặc dù MRI có thể cung cấp thông tin chẩn đoán có giá trị vượt quá khả năng siêu âm, nhưng việc sử dụng MRI chỉ được khuyến cáo khi chẩn đoán siêu âm không chắc chắn, khối lượng quá lớn để đánh giá đầy đủ bằng siêu âm hoặc khi có xác suất ác tính cao để đánh giá khả năng ác tính ngoài buồng trứng: xâm lấn, di căn,... (Glanc et al., 2008; Hoover và Jenkins, 2011; Leiserowitz, 2006). Cũng cần lưu ý rằng mặc dù hình ảnh bằng siêu âm và trong các trường hợp bổ sung bằng MRI sẽ làm tăng độ nhạy và độ đặc hiệu.

5. Xử trí khi có thai và bị u buồng trứng

- Chuẩn bị mang thai: Các chị em nên đi khám tổng quát, kiểm tra sức khỏe, trong đó phải khám phụ khoa và siêu âm vùng chậu.

Bác sĩ lâm sàng cần đưa ra quyết định khi nào thì phẫu thuật vì: nếu mổ sớm (nguy cơ sảy thai và mất chức năng hoàng thể trước tháng thứ tư của thai kỳ) và quá muộn (biến chứng như xoắn, vỡ hoặc chảy máu, tiến triển trong trường hợp ác tính, chuyển dạ sớm) có thể ảnh hưởng đến bệnh nhân và thai nhi. Đánh giá hồi cứu kết quả của khối u buồng trứng sau quản lý cho thấy tỷ lệ mắc bệnh và tử vong của thai nhi cao hơn cũng như nguy cơ sinh non do vỡ tự phát. Tổn thương cận buồng trứng có khả năng là lành tính và không cần can thiệp trong thai kỳ (Glanc et al., 2008).

- 3 tháng giữa (phẫu thuật an toàn): lúc này hoàng thể thai kỳ do buồng trứng tiết ra đã hết nhiệm vụ. Sự nuôi dưỡng thai nhi sẽ do bánh nhau đảm nhận. Trong 3 tháng giữa tử cung ít bị nhạy cảm để gây nên cơn gò tử cung, phẫu thuật sẽ an toàn hơn. Phải phẫu thuật u buồng trứng vì tính chất nặng nề của những biến chứng và y học không thể tiên lượng được đến thời điểm nào thì một khối u buồng trứng lành tính sẽ có những biến chứng, đặc biệt là biến chứng hóa ung thư.

Một phẫu thuật nội soi hoặc phẫu thuật mở tối thiểu được ưa thích. Nội soi là an toàn và khả thi khi các hướng dẫn cụ thể được tuân theo. Mổ nội soi được thực hiện tối ưu trong khoảng thời gian từ 16 đến 20 tuần tuổi thai, phẫu trường rõ, thao tác dễ dàng và tỷ lệ chuyển dạ sớm giảm (Amant et al., 2010 ; Hoover và Jenkins, 2011).

Nếu u buồng trứng phát hiện vào 3 tháng cuối thai kỳ: U dự đoán lành tính: chờ chuyển dạ tự nhiên, nhưng lưu ý u buồng trứng có thể trở thành u tiền đạo làm cản trở cuộc sanh, không sinh được phải mổ lấy thai. Trong khi mổ lấy thai, có thể mổ lấy luôn khối u buồng trứng. Nếu u dự đoán ác tính: sử dụng thuốc hỗ trợ phổi cho thai và tiến hành phẫu thuật lấy khối u buồng trứng khi thai đủ trưởng thành, có thể  sống, khỏe mạnh sau khi được sinh ra.

Sau sinh có u buồng trứng: U buồng trứng dễ có biến chứng trong thời kỳ hậu sản, thường phẫu thuật giai đoạn này an toàn cho mẹ và con hơn.

Sau phẫu thuật, Khối u buồng trứng được gửi đến phòng xét nghiệm giải phẫu bệnh lý để xác định là khối u lành tính hay ác tính, là loại khối u gì? Từ đó sẽ có hướng tiên lượng và điều trị thích hợp sau khi phẫu thuật.

Kết luận:

Bất cứ u buồng trứng thực thể nào cũng có tiềm năng hóa ác tính, là một biến chứng nguy hiểm nhất cho chị em phụ nữ nhất là phụ nữ mang thai có u buồng trứng. Việc phát hịện, chẩn đoán sớm để được điều trị kịp thời là một thách thức cho ngành y tế cũng như trong cộng đồng phụ nữ mang thai. Việc tầm soát không khó khăn và tương đối đơn giản bằng thăm khám và siêu  âm nhưng thường không được chị em phụ nữ nhất là chị em có thai chú ý và quan tâm. Chỉ cần chị em đi đến cơ sở y tế để khám kiểm tra phụ khoa trước khi mang thai và vào 3 tháng đầu của thời kỳ thai nghén là có thể an tâm chăm lo sức khỏe của cả hai mẹ con trong suốt quá trình mang thai 40 tuần lễ.

Ngay cả những phụ nữ không mang thai, chị em cũng cần phải khám phụ khoa, siêu âm định kỳ để phát hiện sớm nếu có u buồng trứng và phẫu thuật lấy khối u kịp thời trước khi u gây ra những biến chứng nguy hiểm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Management of Ovarian cyst and Cancer in Pregnancy. J. de Haan , M. Verheecke , and F. Amant. 2015

2. U buồng trứng và thai. TS. BS. Huỳnh Thị Thu Thủy. BV Từ Dũ 

                                                                                                                     Bs.CKI Lê Đăng Đại

                                                                               Phó trưởng Khoa sản - Bệnh viện Đa khoa Khu vực Thủ Đức